Mộng Vân – Trần Tấn Trung (1910-1950)

Soạn giả Mộng Vân, tên thật là Phan Long Trung, sau đổi thành Trần Tấn Trung, lấy bút hiệu Mộng Vân. Tên gọi này theo ông suốt cả cuộc đời hoạt động nghệ thuật. Ông không chỉ là một nhà báo, một nhạc sĩ mà còn là một soạn giả tài hoa. Những tác phẩm của ông từng vang danh khắp nơi, được đông đảo công chúng ái mộ. Tuy nhiên, tài liệu về cuộc đời ông lại khá hiếm, ngay cả những người thân cận cũng chỉ biết về ông ở một vài khía cạnh nhất định.

Theo bà Phạm Ngọc Dung, vợ ông, Mộng Vân sinh năm Canh Tuất 1910 tại làng Vĩnh Lợi, tổng Thạnh Hòa, tỉnh Bạc Liêu (nay thuộc khu vực Trà Văn, thị xã Bạc Liêu). Thuở nhỏ, ông học chữ Nho với ông Cả Tòng và theo học chữ Pháp, chữ Quốc ngữ ở trường. Nhờ trí tuệ thiên bẩm, ông học rất giỏi. Tuy nhiên, thay vì làm việc cho Pháp, ông chọn con đường hoạt động cách mạng và văn hóa.

Nhận thức sâu sắc về cải cách xã hội, ông cộng tác với tờ báo La Cloche Fêlée (Cái Chuông Rè) theo lời mời của Trần Đình Tuệ, sử dụng ngòi bút để phản ánh tình hình thời cuộc, kêu gọi canh tân đất nước. Tuy chưa gia nhập tổ chức cách mạng nào, ông thường xuyên trao đổi với nhà cách mạng Nguyễn An Ninh, khiến mật thám Pháp theo dõi. Đầu năm 1928, ông chính thức tham gia Hội Kín – tổ chức chống Pháp của Nguyễn An Ninh. Tuy nhiên, cuối năm đó, trong một cuộc họp bí mật bị bại lộ, ông và Trần Đình Tuệ trốn thoát, nhưng phải lánh sang Nam Vang, đồng thời đổi tên thành Trần Tấn Trung để tránh truy bắt.

Từ nhỏ, Mộng Vân đã yêu thích cổ nhạc, có cơ hội học nhạc với danh sư Nhạc Khị nên tiến bộ rất nhanh. Với trí thông minh vượt trội, ông nắm vững kiến thức nhạc lý chỉ trong vài năm. Tuy nhiên, do bận nhiều công việc, ông chưa có điều kiện phát huy tài năng. Mãi đến khi lưu lạc sang Nam Vang, ông mới dành thời gian nghiên cứu sâu hơn về cổ nhạc.

Ngoài tài đờn giỏi, Mộng Vân còn say mê sáng tác. Ông chịu ảnh hưởng từ tư tưởng của Trịnh Thiên Tư, thể hiện qua những tác phẩm chứa đựng thông điệp cải cách. Năm 1932, ông viết kịch bản đầu tay “Quan Công hiển thánh”, ca ngợi tình bạn, lòng trung nghĩa. Trịnh Thiên Tư đánh giá cao kịch bản này và giới thiệu với ông Đốc Tùng, chủ đoàn hát Thái Dương. Vở diễn được công diễn thành công nhờ sự góp mặt của những danh ca nổi tiếng như Hai Nhuận, Chín Quy, Năm Út, cùng dàn nhạc xuất sắc gồm Sáu Lầu, Ba Chột, Hai Tài…

Tiếp nối thành công, Mộng Vân viết “Nghĩa nhẹ hơn tình” cho đoàn Huỳnh Vân (1933) và hàng loạt vở khác như “Gương Quốc Sĩ”, “Tráng sĩ Kinh Kha”, “Lưỡng Long đại hiệp”, “Hồng châu hiệp nữ” (1934-1936), mỗi vở đều mang nét độc đáo riêng. “Tráng sĩ Kinh Kha” gây tiếng vang lớn, còn “Lưỡng Long đại hiệp” và “Hồng châu hiệp nữ” giúp nghệ sĩ Bảy Cao nổi danh.

Từ 1937 đến 1939, ông biên soạn một loạt kịch bản: “Huyết chiếu hận thù”, “Lửa lòng thiếu phụ”, “Hồng Long quái khách I, II, III”, “Hiệp khách xa trường”, “Mộ cô Hồng”, “Thuyền về”, “Chiếc lá vàng”… Các tác phẩm này góp phần làm phong phú nền cải lương.

Năm 1940, ông hợp tác với đoàn Chấn Hưng của Trần Khâm Thành, tiếp tục viết nhiều vở cho các đoàn khác như “Bích Liên vương nữ”, “Trái tim không máu”, “Xâu chuỗi ngọc”, “Giọt máu công nhân”, “Giọt máu sông Hằng”, “Bên kia thành”, “Hoàng tử lưng gù”…

Năm 1944, ông thành lập đoàn hát Mộng Vân, vừa làm bầu, soạn giả, đạo diễn, vừa viết những kịch bản ăn khách như “Đêm tơ vương”, “Tố nữ”, “Thử lửa”, “Triều Tiên vong quốc sử”. Ngoài ra, ông còn hỗ trợ các đoàn khác: viết “714” cho đoàn Oanh Vàng (1946), “Cành vàng trong lửa đỏ” cho đoàn Tân Tiến, “Chuỗi hận ngày xuân” cho đoàn Sao Mai, “Đề Thám” cho đoàn Tân Xuân… Đến khi đoàn Hậu Tấn Bảy Cao và Hậu Tấn Năm Nghĩa ra đời, ông hỗ trợ với “Cô gái Quảng Trị”, “Ngũ Tử Tư quá quan”, “Phạm Lãi Tây Thi”, “Đôi Bạch Loan”…

Những năm cuối đời, ông vẫn miệt mài sáng tác: “Ba ngọn đèn xanh”, “Lưỡi bén hơn gươm”, “Bên chiến lũy”, “Hội nghị nhị cường”, “Ngày về của thương binh”… Tác phẩm cuối cùng của ông là “Đất nước lâm nguy” (1948). Năm đó, ông lâm bệnh nặng, không thể sáng tác thêm. Hơn một năm sau, ông qua đời vào năm 1950, để lại niềm tiếc thương vô hạn cho giới nghệ thuật.

Tại hội thảo khoa học “Hiện tượng Mộng Vân” (TP.HCM, 1991), nghệ sĩ Bảy Cao xác nhận Mộng Vân là người đầu tiên kéo dài bản “Dạ cổ hoài lang” từ nhịp 2 lên nhịp 4, đồng thời nâng “Vọng cổ” từ nhịp 8 lên nhịp 16. Nhạc sĩ Trần Tấn Hưng khẳng định: “Chính tôi đã dựa trên bản này để phát triển thành Vọng cổ nhịp 32”.

Sau khi ông mất, đoàn cải lương Mộng Vân tiếp tục hoạt động đến năm 1952 dưới sự điều hành của bầu Ba Tẹt và vợ là đào chánh Kim Anh, trước khi tan rã. Kim Anh sau đó đầu quân cho đoàn Thanh Minh của Năm Nghĩa.

Trong 16 năm cuối đời, Mộng Vân sáng tác 68 kịch bản, hơn 30 nhạc khúc, để lại dấu ấn không thể phai mờ trong lịch sử cải lương Việt Nam. Ông đã hiến dâng gần như cả cuộc đời mình để làm rạng danh nền cổ nhạc Nam Bộ, mở ra một trường phái sân khấu riêng biệt và để lại di sản quý giá cho hậu thế.