Năm Nở – Lê Hoài Nở (1909-2000)
Soạn giả Năm Nở, tên thật Lê Hoài Nở, sinh năm 1909 tại làng Tân Hưng, huyện Lai Vung, tỉnh Sa Đéc (nay thuộc tỉnh Đồng Tháp). Ông xuất thân trong gia đình địa chủ giàu có, cha là Cai tổng Hoài, sở hữu nhiều ruộng vườn và trại nuôi vịt. Sau khi đậu bằng Tiểu học (CEPCI), ông được cha cho lên Sài Gòn học tiếp, nhưng thi rớt bằng Thành Chung và trở về quê làm thầy giáo từ năm 1930.
Là một công tử vườn, Năm Nở ngoài giờ dạy học còn đam mê đờn ca tài tử, chơi đá banh, đá gà, và đá cá. Ông thành thạo đờn kìm, đờn cò, và có giọng ca mượt mà, sâu lắng, khiến nhiều người say mê. Tuy nhiên, gia đình ông dần sa sút do cha ông vay nợ nặng lãi từ Chà Chetty để tranh cử Hội đồng nhiều lần thất bại. Cuối cùng, ruộng vườn và trại vịt bị tịch thu, đẩy gia đình vào cảnh khó khăn.
Năm 1938, Lê Hoài Nở rời quê lên Sài Gòn, gia nhập gánh hát Nam Hưng của ông bầu Sáu Ngọ. Nhờ tài năng đờn ca và học thức, ông nhanh chóng trở thành kép chánh. Năm 1940, ông hợp tác với Năm Châu và Tám Bang thành lập gánh hát cải lương Năm Châu. Tại đây, ông sáng tác nhiều vở tuồng nổi tiếng như Những Kẻ Vứt Đi!, Thử Yêu Chồng, Hội Yêu Chồng, Vó Ngựa Truy Phong, và Khi Người Điên Biết Yêu. Ông nổi danh là soạn giả chuyên viết tuồng cải lương xã hội trào phúng, phản ánh những nghịch lý trong cuộc sống.
Năm 1948, Năm Nở cùng các nghệ sĩ tiền phong thành lập Hội Nghệ Sĩ Ái hữu Tương Tế và được bầu vào Ban Chấp hành. Cùng năm, ông lập gánh hát cải lương Sống Mới, với các diễn viên tài năng như Sáu Nết, Sáu Ngọc Sương, Duy Lân, Duy Chức, và Ba Thâu. Ông viết 6 kịch bản cho đoàn, bao gồm Anh Chị Ăn Mày, Nỗi Lòng Chị Bếp, Hăm Ba Đưa Ông Táo Về Trời, Ông Huyện Hàm…Hàm, Thử Làm Vợ Bé, và Sở Chữa Lửa Đụng Hãng Xăng Dầu. Tuy nhiên, do nội dung châm biếm các quan chức, đoàn hát thường xuyên bị cấm diễn, dẫn đến thất thu và tan rã.
Năm 1954, Năm Nở về sống ở xóm Bàn Cờ, sau đó mở quán nhậu với bảng hiệu Năm Nở Nhậu Chơi. Năm 1962, ông cùng các nghệ sĩ như Năm Châu, Duy Lân, Phùng Há, và nhạc sĩ Hai Khuê được mời làm giáo sư tại Trường Quốc Gia Âm Nhạc & Kịch Nghệ Sài Gòn. Ông góp phần đào tạo nhiều nghệ sĩ tài năng như Tuyết Sĩ, Mai Thành, Phương Ánh, Hương Xuân, và Đỗ Quyên.
Năm 1967, con trai ông du học tại Pháp và xin cho cha mẹ sang trị bệnh. Chiến tranh Việt Nam leo thang, ông bà Năm Nở ở lại Pháp lâu hơn dự định. Để sinh sống, ông mở nhà hàng Sào Nam tại khu Montmartre, Paris.
Năm 1976, vợ chồng Năm Nở trở về Việt Nam với hy vọng sống những ngày tháng an nhàn tại quê nhà. Tuy nhiên, ông gặp nhiều rắc rối với chính quyền đương thời. Bị coi là “Việt kiều” và không có hộ khẩu, ông sống trong tình trạng bấp bênh, không được công nhận quyền công dân. Dù làm đơn khiếu nại, ông không được giải quyết do thiếu “thủ tục đầu tiên” – tiền.
Từ năm 1976 đến khi qua đời ngày 25 tháng 5 năm 2000, Năm Nở sống trong cảnh chật vật, không thể sáng tác do không có điều kiện và tự do nghệ thuật. Ông tâm sự: “Không hộ khẩu, lo chạy mua gạo, mua nhu yếu phẩm, hầu hạ, chầu chực ở các hợp tác xã, mất không biết bao nhiêu là thời giờ, lại còn bị đuổi nhà, nhà bị giải tỏa, ở không yên, sống chật vật, làm sao mà có tâm trí nào để sáng tác tuồng tích? Viết gì đây? Dám phê phán ai, dám cười cợt ai? Viết rồi tuồng cũng không kiểm duyệt được, không có đoàn nào dám hát, vậy thì viết sao được mà viết? Bẻ cong ngòi bút, tôi không làm được. Viết theo mệnh lệnh, tôi cũng không làm được. Có một chuyện tôi làm được: đó là làm thinh!”.
Lê Hoài Nở qua đời tại nhà riêng bên bờ sông Nhiêu Lộc (sông Thị Nghè), Sài Gòn, thọ 92 tuổi. Cuộc đời ông là một bi kịch của người nghệ sĩ tài hoa, mang nhiều hoài bão nhưng phải sống trong nghịch cảnh, im lặng cho đến ngày cuối cùng.
Những tác phẩm tiêu biểu:
- Những Kẻ Vứt Đi!
- Thử Yêu Chồng
- Hội Yêu Chồng
- Vó Ngựa Truy Phong
- Khi Người Điên Biết Yêu
- Anh Chị Ăn Mày
- Nỗi Lòng Chị Bếp
- Ông Huyện Hàm…Hàm
Lê Hoài Nở không chỉ là một soạn giả tài năng mà còn là người tiên phong trong việc đưa yếu tố trào phúng vào cải lương, phản ánh những nghịch lý xã hội. Dù cuộc đời ông gặp nhiều bất hạnh, di sản nghệ thuật của ông vẫn mãi là niềm tự hào của nền sân khấu Việt Nam.