Nguyễn Tri Khương (1890-1962)
Soạn giả Nguyễn Tri Khương sinh năm 1890 tại làng Đông Hòa, tổng Thuận Bình, quận Châu Thành, tỉnh Mỹ Tho (nay thuộc xã Đông Hòa, huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang). Ông là cháu nội của danh thần Nguyễn Tri Phương và con trai của ông Nguyễn Tri Túc, một điền chủ giàu có, từng giữ chức Ủy viên hội đồng tỉnh. Ông là con thứ tư trong gia đình, nên thường được gọi là Năm Khương theo thông lệ miền Nam.
Sinh ra trong gia đình giàu truyền thống văn hóa, Nguyễn Tri Khương được thừa hưởng nền giáo dục toàn diện, kết hợp giữa Nho học và Tây học. Ông nổi tiếng thông minh, học giỏi, văn hay chữ tốt, lại tinh thông võ nghệ và âm nhạc truyền thống, đặc biệt là tài thổi sáo được xem là thiên phú.
Năm 20 tuổi, ông bắt đầu sự nghiệp giáo dục, dạy vỡ lòng cho trẻ em trong vùng. Ông cũng là người có ảnh hưởng lớn đến cháu trai Trần Văn Khê, sau này trở thành giáo sư âm nhạc nổi tiếng. Tương truyền, khi em gái ông mang thai Trần Văn Khê, ông đã thổi sáo cho thai nhi nghe, góp phần nuôi dưỡng tình yêu âm nhạc trong cháu mình.
Năm 1926, khi gánh hát Đồng Nữ Ban của bà Trần Ngọc Viện (cô Ba Viện) được thành lập, Nguyễn Tri Khương được mời tham gia với vai trò soạn giả và nhạc công. Ông đã chuyển thể tiểu thuyết Giọt máu chung tình của nhà văn Tân Dân Tử thành vở cải lương Giọt lệ chung tình. Vở diễn ra mắt lần đầu tại cầu Ba Lung, xã Vĩnh Kim, và nhận được sự đón nhận nồng nhiệt từ khán giả. Đây là một trong những vở cải lương đầu tiên mang đậm tinh thần dân tộc, phản ánh tâm tư của người Việt trong thời kỳ thuộc địa.
Ngoài Giọt lệ chung tình, ông còn sáng tác nhiều bài bản đờn ca tài tử mới như Yến tước tranh ngôn, Phong suy tịch liễu, và Thất trĩ bi hùng. Những tác phẩm này không chỉ thể hiện tài năng âm nhạc của ông mà còn góp phần làm phong phú kho tàng nhạc tài tử Nam Bộ.
Sau thành công của Giọt lệ chung tình, ông tiếp tục dàn dựng hai vở mới là Hiệp tình quân tử và Bên nghĩa bên tình. Tuy nhiên, do nội dung mang tính chất dân tộc và liên quan đến các vấn đề chính trị, gánh hát Đồng Nữ Ban bị chính quyền thực dân cấm hoạt động.
Sau khi gánh hát tan rã, Nguyễn Tri Khương trở về quê nhà, tiếp tục dạy học và tham gia công tác xã hội. Ông được dân làng bầu vào ban Hội tề và dần lên chức Hương sư, Hương cả. Cuối đời, ông vẫn miệt mài sáng tác những bài ca và vở kịch nhỏ như Túy tửu lạc ngôn, Hồ điệp xuyên hoa, và Non sông một chèo, với mục đích truyền bá chữ Quốc ngữ và nâng cao dân trí.
Ngoài ra, ông còn tham gia đóng phim, thường vào vai nông dân già hoặc thổi sáo làm nhạc nền. Ông cũng hỗ trợ cháu trai Trần Văn Khê hoàn thành luận án tiến sĩ bằng cách cung cấp tư liệu quý giá về lịch sử âm nhạc tài tử miền Nam.
Nguyễn Tri Khương qua đời năm 1962 tại quê nhà, thọ 72 tuổi. Ông được xem là một trong những soạn giả tiền phong của nền cải lương Việt Nam, người đã đặt nền móng cho những vở tuồng xã hội sau này. Di sản nghệ thuật của ông mãi mãi là niềm tự hào của nền văn hóa dân tộc.