Tư Trang – Trần Hữu Trang (1906-1966)

Soạn giả Trần Hữu Trang sinh năm 1906 tại xã Phú Kiết, huyện Chợ Gạo, tỉnh Mỹ Tho (nay thuộc tỉnh Tiền Giang). Ông xuất thân trong một gia đình nông dân trung nông sa sút, từng phải làm thợ hớt tóc để mưu sinh. Quê hương ông cũng là nơi sản sinh nhiều nghệ sĩ cải lương nổi tiếng như Hai Giỏi, Năm Châu, Bảy Nhiêu, Phùng Há, Năm Phỉ, Tư Chơi, Tư Anh, Hai Thông…

Ngay từ nhỏ, Trần Hữu Trang đã bộc lộ tinh thần yêu nước và tình yêu nghệ thuật. Trong giai đoạn 1926-1928, ông tham gia phong trào đấu tranh đòi thả Phan Bội Châu và dự các buổi diễn thuyết của Phan Châu Trinh. Ông cũng sớm liên hệ với phong trào cộng sản từ những năm 1930-1931. Có lần, ông đã che giấu một chiến sĩ cách mạng bị truy đuổi và tặng 20 đồng làm lộ phí. Trong thời gian gắn bó với gánh hát Phụng Hảo của nghệ sĩ Phùng Há, ông đã tiếp xúc với chiến sĩ Nguyễn Chí Diểu, người khuyến khích ông theo đuổi khuynh hướng sáng tác “tả thực xã hội” – một phong cách mà ông luôn tuân thủ trong các tác phẩm của mình.

Khởi đầu sự nghiệp, Trần Hữu Trang làm thư ký chép vở cho các gánh hát, sau đó được nghệ sĩ Mười Giảng (Đặng Công Danh) hướng dẫn và dạy dỗ. Kịch bản đầu tay của ông, Lửa đỏ lòng son, ra đời năm 1928, tiếp theo là Tâm hồn nghệ sĩ. Những tác phẩm này tuy còn non trẻ nhưng đã mang hơi thở hiện thực xã hội, đưa cuộc sống đương thời lên sân khấu cải lương, tạo nên sự mới mẻ cả về hình thức lẫn nội dung.

Thập niên 1930 là thời kỳ đỉnh cao trong sự nghiệp sáng tác của Trần Hữu Trang. Ông cho ra đời hàng loạt tác phẩm nổi tiếng như Tô Ánh Nguyệt (1934), Lan và Điệp (1936), và Đời cô Lựu (1937). Những vở diễn này không chỉ thành công về mặt thương mại mà còn được đánh giá cao về giá trị nghệ thuật và tư tưởng. Ông cộng tác với các gánh hát Trần Đắc, Năm Phỉ, Phụng Hảo, và Năm Châu, tạo nên nhiều tác phẩm ăn khách như Tìm hạnh phúcMộng hoa vươngChị chồng tôiTình lụy, và Khi người điên biết yêu (viết chung với Năm Châu và Lê Hoài Nở).

Các tác phẩm của Trần Hữu Trang đi sâu vào hiện thực xã hội, phơi bày số phận bi thảm của những người dân nghèo khổ và những bi kịch trong tình yêu, hôn nhân. Ông không ngần ngại tố cáo những tệ nạn xã hội, vạch trần sự thối nát của chế độ đương thời, đồng thời thể hiện khát vọng giải phóng con người khỏi những ràng buộc của lễ giáo phong kiến. Với gần 30 kịch bản mang giá trị nhân văn sâu sắc, ông được xem là một trong những soạn giả vĩ đại nhất của nền cải lương Nam Bộ.

Không chỉ là một nghệ sĩ tài năng, Trần Hữu Trang còn là một chiến sĩ cách mạng kiên trung. Ông tham gia kháng chiến chống Pháp từ những ngày đầu, từng giữ chức Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến xã Phú Kiết. Năm 1947, ông vào Sài Gòn hoạt động bí mật dưới vỏ bọc của một nghệ sĩ trong đoàn cải lương “Con tằm”. Ông cũng là một trong những người sáng lập Hội Nghệ sĩ Ái hữu và tích cực hoạt động trong Ban chấp hành.

Sau Cách mạng Tháng Tám, do bận rộn với công tác cách mạng, ông ít sáng tác hơn. Năm 1946, ông viết vở Hậu chiến trường. Đến năm 1960, khi phong trào Đồng khởi nổi lên, ông vào chiến khu và giữ chức Chủ tịch Hội Văn nghệ Giải phóng. Năm 1966, ông bắt tay viết kịch bản về người chiến sĩ cách mạng Nguyễn Văn Trỗi, nhưng chưa kịp hoàn thành thì hy sinh trong trận oanh kích của máy bay B52 vào Trung ương Cục miền Nam. Ông qua đời ngày 20-11-1966, thọ 60 tuổi.

Trần Hữu Trang được Nhà nước truy tặng Huân chương Thành đồng và Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật (đợt 1, năm 1996). Tên ông được đặt cho nhiều công trình văn hóa, bao gồm Nhà hát Cải lương Trần Hữu Trang và giải thưởng Trần Hữu Trang – một trong những giải thưởng cao quý nhất dành cho nghệ sĩ cải lương.

Những tác phẩm tiêu biểu:

  • Tô Ánh Nguyệt (1934)
  • Lan và Điệp (1936)
  • Đời cô Lựu (1937)
  • Tìm hạnh phúc
  • Mộng hoa vương
  • Chị chồng tôi
  • Tình lụy
  • Khi người điên biết yêu (viết chung với Năm Châu, Lê Hoài Nở)
  • Hậu chiến trường (1946)

Với gần 30 vở cải lương, Trần Hữu Trang đã khắc họa chân thực hiện thực xã hội đương thời, phơi bày những bất công và khát vọng giải phóng con người. Những tác phẩm của ông không chỉ được đón nhận nồng nhiệt trong thời đại của mình mà còn trường tồn như một di sản quý giá của nền nghệ thuật dân tộc.