Nữ danh ca tài tử Bạch Huệ sinh năm 1933 tại Cần Thơ. Cha cô là thầy đờn Sáu Tửng, một tay đờn kìm quán tuyệt, một danh cầm lừng lẫy thuộc hàng tiền bối của Văn Vĩ, Năm Cơ, Bảy Bá (Ba người được mệnh danh là Tam Hùng trong làng đờn cổ nhạc hồi trước). Danh cầm Sáu Tửng, ngoài nổi tiếng trong lĩnh vực Đờn ca tài tử, còn tham gia đờn cho nhiều đoàn hát cải lương chuyên nghiệp. Bạch Huệ có một người anh trai là nhạc sĩ nổi tiếng Huỳnh Anh, tác giả của bài tân nhạc trứ danh Mưa Rừng (viết riêng cho Thanh Nga và đến hiện tại vẫn còn được nhiều người yêu thích).
Từ nhỏ, Bạch Huệ đã sống trong cái không khí Đờn ca tài tử của vùng đất Cần Thơ. Tiếng Đờn, lời ca câu hát tài tử đã thấm vào tâm hồn của cô lúc nào không hay biết. Để rồi, dù thân phụ không cho, nhưng Bạch Huệ vẫn lén học ca tài tử. Đến năm 13 tuổi, Bạch Huệ đã được mời ca trên đài phát thanh Pháp Á ở Sài Gòn. Bạch Huệ ca đã có tiếng nhưng cha cô lại chưa hay biết. Đến năm Bạch Huệ 18 tuổi, khi danh cầm Sáu Tửng phát hiện con gái là một tay ca tài tử điệu nghệ thì chuyện đã rồi. Và ông phải chấp nhận cái cảnh: “Con nhà tông không giống lông cũng giống cánh”.
Tiếng tăm Bạch Huệ trở nên vang dội khi mà vào năm 1951, tờ báo Tiếng Dội của ông Trần Tấn Quốc -người chủ xướng giải Thanh Tâm, cho trưng cầu ý kiến độc giả, thì Bạch Huệ đoạt danh hiệu “Nữ đệ nhất danh ca”. Sau đó, nhiều đoàn hát đã mời Bạch Huệ cộng tác. Thế nhưng, có lẽ tổ nghiệp đã muốn cho “hai loài hoa trắng” trấn giữ mỗi người một lĩnh vực, nên mới cố tình sắp đặt cho “Hoa lan trắng” (Út Bạch Lan) “trấn” bên cánh nữ của cải lương, còn “Hoa huệ trắng” (Bạch Huệ) trấn bên cánh nữ của Đờn ca tài tử. Và có lẽ vì thế, sau khi tham gia một số đoàn hát cải lương chuyên nghiệp, Bạch Huệ đã không thu được thành công như khi còn ở bên Đờn ca tài tử. Cuối cùng, Bạch Huệ trở lại với lĩnh vực Đờn ca tài tử và hầu như đã “ngự trị” lĩnh vực này đến cuối đời.
Mấy thập niên qua, do nhiều nguyên nhân khác nhau, sân khấu cải lương chuyên nghiệp đã dần mất khán giả. Thế hệ khán giả lớn tuổi đôi khi cũng không còn mặn mà với cải lương. Và dĩ nhiên, lượng khán giả trẻ đến với cải lương là rất ít. Đờn ca tài tử là bộ môn “xưa” hơn cải lương nên thu hút càng ít người trẻ tuổi.
Thế nhưng, có một điều đặc biệt đối với Bạch Huệ, đó là giọng ca của cô lại được nhiều bạn trẻ biết đến và yêu thích. Từ năm 2008, Bạch Huệ bị tai nạn giao thông phải ngồi xe lăn, thế nhưng, người ta vẫn thấy cô xuất hiện ở hầu hết các chương trình Đờn ca tài tử từ Sài Gòn đến các tỉnh.
Thời gian gần đây, người ta vẫn còn thấy một bà lão tóc bạc ngồi xe lăn ca trên sân khấu của một phòng trà có tiếng ở Thành phố Hồ Chí Minh. Mọi người cũng được chứng kiến một hình ảnh đáng ngạc nhiên : mấy chục sinh viên trẻ tuổi ngồi nghe say mê bài Dạ cổ hoài lang được thể hiện bởi một bà lão liệt hai chân phải bám hai tay vào thân cột nhà để ca. Bà lão tóc bạc phơ đó chính là nữ danh ca tài tử Bạch Huệ.
Từ Đờn ca tài tử đến Cải lương
Bạch Huệ “chuyên trị” Đờn ca tài tử, chứ không phải là nghệ sĩ cải lương chuyên nghiệp. Đờn ca tài tử khác biệt với cải lương như thế nào? Đờn ca tài tử có phải là “quê mùa” như người ta thường nghĩ? Đờn ca tài tử có “dễ chơi” không ? Xin lướt qua đôi chút về những vấn đề này để hiểu thêm và trân trọng hơn nữa “cái nghề” mà danh ca Bạch Huệ đã gắn bó suốt 70 năm.
Tản mạn từ các tài liệu ghi chép cho liên quan, có thể khái quát về tài tử và cải lương như sau : Người dân đồng bằng Nam Bộ từ bao lâu nay có một thú vui rất văn học, đó là hò đối đáp: Hò trên đồng ruộng khi gieo mạ hay cắt lúa, hò trên sông khi chèo thuyền, hò đêm trăng trong dịp lễ cúng đình …
Từ đó mà bao câu hò điệu lý đã ra đời. Đương nhiên, cái hò không phải là do bà con Nam Bộ sáng tạo ra, mà là do ông cha ta đã du nhập vào Nam trong quá trình “Nam tiến”. Thế nhưng, những câu hò điệu lý của bà con Nam Bộ có cái rất riêng, và phải là giọng “rặc” miền Nam thì hò nghe mới hay.
Đến cuối thế kỷ XIX, Nhã Nhạc Cung Đình Huế bắt đầu tiến xuống phương Nam và đương nhiên là được văn hóa Nam Bộ dung hợp như bản chất vốn có của nền văn hóa này. Sự hội ngộ giữa hai nền âm nhạc đã cho ra đời cái gọi là “Đờn ca tài tử”. Bà con nông dân Nam Bộ khi rảnh rỗi, hay nhân dịp trăng rằm, hẹn nhau tập trung lại một nhà, ngồi ngoài sân, cùng “ăn nhậu”, cùng ca hát. “Ăn nhậu” ở đây không mang nghĩa “rượu chè be bét”, mà là: mượn men rượu làm thắm men tình, làm nồng câu ca tiếng hát.
Dần dần, người ta ngồi ca hoài cũng chán, trong khi có những bài ca mới khá dài, có chứa đựng những hành động hay những lời đối đáp. Thế là, người ca tài tử mới bắt đầu đứng dậy “ca” với những “cử chỉ” tay, mắt, mặt…để bổ trợ cho lời ca. Đương nhiên, những cử chỉ điệu bộ này hết sức “thô sơ”, thể hiện đúng như “rập khuôn” cái tình cảm mà bài ca muốn nói. Tức đúng với bản chất chân quê của người nông dân: nghĩ sao nói vậy. Đó là cách ca mà các nhà nghiên cứu sau này gọi là “Ca ra bộ”.
Trong khoảng thời gian đầu thế kỷ XX, người Việt Nam đã biết đến kịch nghệ của Pháp. Kịch cổ điển của Pháp được biểu diễn trên sân khấu, mỗi vở diễn thường được chia ra thành 5 màn, xoay quanh một cốt truyện nào đó. Loại hình này cũng đã ảnh hưởng đến những người ca tài tử Nam Bộ.
Bởi có người nghĩ : Tại sao chỉ viết những bài ca vắn mà không viết thành hẳn một tuồng cùng một cốt truyện nhưng có nhiều tình tiết và đưa lên sân khấu biểu diễn. Trong ý tưởng đó, “Cải lương” đã ra đời.
Như vậy, Cải lương nói một cách nôm na là Ca ra bộ được đưa lên trình diễn trên sân khấu. Thế nhưng, đã lên sân khấu hát nguyên tuồng thì phải “diễn xuất”. Tức là, người nghệ sĩ trên sân khấu lấy lời “ca” để bổ trợ cho động tác “diễn”. Người ta đến “xem” nghệ sĩ biểu diễn, còn người nghệ sĩ thì “hát” cho người ta “xem”. Bởi vậy mà, thường nghe ông bà ta nói là “hát cải lương”, nhưng lại là “Ca tài tử”. Bởi vì, trong Đờn ca tài tử, thì động tác “ca” là chính mà “ra bộ-diễn” là phụ.
Và khi một nghệ sĩ cải lương và một người ca tài tử thể hiện cùng một bài ca, thì qua động tác thể hiện, người ta có thể phân biệt được đâu là dân cải lương mà đâu là dân tài tử: động tác của tài tử thì “thô sơ”, có sao làm vậy, còn động tác của nghệ sỹ cải lương thì có ít nhiều ước lệ trong đó, nên nó được thể hiện đúng mức và đẹp mắt, mang tính chuyên nghiệp.
Vì cái trọng tâm là biểu diễn, cho nên người nghệ sĩ cải lương không phải bận tâm học đầy đủ bài bản tổ, mà thường chỉ học ca cái gì cần thiết cho vai tuồng mà thôi. Ví dụ như bản Phụng Hoàng 12 câu, trong vai tuồng soạn giả chỉ viết có 4 câu, thì người nghệ sĩ đóng vai tuồng đó chỉ tập trung học ca bốn câu đó mà thôi.
Phụng Hoàng là bài bản khá quen thuộc nằm trong 20 bài bản tổ, nên dĩ nhiên nghệ sĩ cải lương chuyên nghiệp đều biết ca hết 12 câu, thế nhưng không phải ai cũng làu thông 20 bài bản tổ. “Làu thông” ở đây tức là hiểu rõ nhịp nhàng và ca đúng nhịp từ đầu đến cuối tất cả 20 mươi bài bản tổ.
Chưa hết, mỗi bài bản đều thể hiện một tâm trạng cụ thể. Có bài bản thể hiện sự bi ai tột cùng, có bài bản thể hiện sự đau khổ vừa phải, có bài bản thể hiện sự bi hùng, có bài bản thể hiện sự tươi vui rộn rã…Trong từng bài bản, người ca phải làm sao sử dụng giọng ca thể hiện được tâm trạng cần thiết (đúng “cái thần” của bài bản) và đương nhiên cũng phải đúng nhịp nhàng.
Đây là một yêu cầu rất khó mà nếu không phải nghệ sỹ cải lương bậc thầy thì khó lòng đạt đến được. Bởi vậy, nhiều nghệ sĩ cải lương được gọi là chuyên nghiệp, nhất là trong giai đoạn ngày nay, chỉ đạt được một điều là ca đúng nhịp thôi chứ chưa đạt đến mức thể hiện được “cái thần” của bài bản. Trong khi đó, như đã nói, dân ca tài tử “đúng điệu” là phải đặt trọng tâm cho việc “ca”, vì thế họ tập trung thể hiện được “cái thần” của bản ca.
Như vậy, dù sinh ra và trưởng thành từ nơi thôn dã, nhưng Đờn ca tài tử thật sự là một nghệ thuật mang tính hàn lâm. Tức là, không phải khi ca tài tử là muốn ca thế nào thì ca, mà rất có khuôn phép, bài bản. Người ca phải ca làm sao cho đúng nhịp, đúng dây đờn. Hơn thế nữa, người ca phải hiểu được nét tinh túy của các bài bản tài tử, đó là: mỗi bài bản tài tử đều có ý thể hiện một tâm trạng cụ thể, đó là “cái thần” của Đờn ca tài tử.
Người ca tài tử được xem là “đúng điệu” không chỉ biết ca đúng nhịp, mà còn phải biết sử dụng giọng ca để thể hiện đúng tâm trạng, đúng “cái thần” mà bài bản đòi hỏi. Nói cách khác là thể hiện tất cả những cung bậc tình cảm bằng giọng hát. Một nghệ sĩ cải lương chuyên nghiệp chưa chắc gì có nhịp nhàng và cách ca “chuẩn” như dân ca tài tử “đúng điệu”. Trên có sở đó, có thể nói rằng, người ca tài tử là những nghệ sĩ nhà nghề “chuyên trị” về “ca”. Đương nhiên, ở đây chỉ nói đến những dân ca tài tử “đúng điệu”, tức là những bậc thầy trong Đờn ca tài tử, chứ không nói đến Đờn ca tài tử đại trà trong quần chúng.
Có người cho rằng, chữ “tài tử” trong Đờn ca tài tử có nghĩa là “dân chơi không chuyên nghiệp”. Thế nhưng, qua những điều phân tích bên trên, ta thấy không thể hiểu như vậy. Còn nhớ cụ Trần Văn Khê thường nói, chữ “tài tử” phải mang ý nghĩa của câu “Dặp dìu tài tử giai nhân” như trong Truyện Kiều của cụ Nguyễn Du.
Người ca tài tử là những bậc tài hoa, yêu thích môn nghệ thuật đờn ca Nam Bộ này, nhưng không phải lấy đó làm nghề để sinh nhai, mà lấy đó là một đam mê, một thú tiêu khiển không thể thiếu và sẵn sàng sống hết mình với thú tiêu khiển đó. Tức là, người ca tài tử lấy sự ca để nuôi dưỡng tinh thần và cũng biết “chết sống” với nó.
Có lẽ đó cũng là lý do mà tại sao danh ca Ngọc Bảo bên tân nhạc suốt đời ông chỉ thích xưng là “Tài tử Ngọc Bảo” chứ không phải là “Ca sĩ Ngọc Bảo” trong khi giọng ca Ngọc Bảo thuộc đẳng cấp bậc thầy trong dòng nhạc của ông.
Người ca tài tử “đúng điệu” không lấy tài tử làm kế sinh nhai còn có trình độ ca như vậy, thì huống gì là người lấy ca tài tử làm nghề, tức là ca tài tử chuyên nghiệp như Danh ca Bạch Huệ, thì trình độ ca còn “chuẩn” đến dường nào.
Đệ nhất nữ danh ca tài tử Nam Bộ
Bạch Huệ có giọng trong, có pha một chút khàn, là một giọng có thế mạnh để “ca mùi”. Tuy nhiên, điểm đặc trưng nhất trong giọng ca của Bạch Huệ đó là một giọng ca “đầy đặn”. Tiếng ca của Bạch Huệ rất khỏe. Thời gian gần đây, dù ở tuổi 80, Bạch Huệ vẫn ca “đầy đặn” như xưa. Nghe Bạch Huệ ca, người nghe không có cảm giác ráng hơi hay đuối hơi.
Bạch Huệ ca rất “tròn vành rõ chữ”. Nhiều danh ca tài tử và nghệ sĩ cải lương chuyên nghiệp cũng đạt được tiêu chí tròn vành rõ chữ, thế nhưng điểm đáng lưu ý là có một số người quá lạm dụng kỹ thuật để được tròn vành rõ chữ. Ca mà có kỹ thuật là điều cần thiết, nếu tập luyện đúng mức và áp dụng thỏa đáng kỹ thuật thì giọng ca sẽ trở nên đẳng cấp hơn.
Thế nhưng, nếu quá lạm dụng kỹ thuật hoặc tập luyện chưa đúng mức thì giọng ca sẽ trở nên « phô », mất tự nhiên và thiếu hồn. Có những nghệ sĩ bậc thầy vận dụng kỹ thuật một cách thượng thừa vào giọng ca nên đã tạo được nét riêng và giọng ca đã đứng vững trong lòng người mộ điệu mấy chục năm qua. Bạch Huệ xếp trong số các nghệ sĩ thượng thừa này. Bạch Huệ ca tròn vành rõ chữ một cách hết sức tự nhiên và rất có hồn, người nghe không hề nhận ra được yếu tố kỹ thuật trong đó. Nói cách khác, Bạch Huệ đã đưa kỹ thuật vào giọng ca ở mức độ thượng thừa, để cho nó trở nên rất tự nhiên.
Một điểm thu hút nữa trong giọng ca Bạch Huệ : dù là bậc thầy về ca tài tử chuyên nghiệp, nhưng Bạch Huệ khi ca luôn tỏ ra cố gắng, đầy tâm huyết, gửi hết tâm hồn cho bài ca. Nhờ đó, mà trong tiếng ca mạnh mẽ của Bạch Huệ, người nghe cảm nhận được sự trân trọng của người ca đối với bài ca, cảm nhận được ở đó cả tâm hồn, cả trái tim của người ca. Và chính điều đó đã làm cho giọng ca Bạch Huệ thêm quyến rũ, làm cho người nghe muốn thưởng thức trọn vẹn bài ca.
Nói về nhịp nhàng, Bạch Huệ là “thợ sắp nhịp”. Tài sắp nhịp của Bạch Huệ thuộc hàng siêu đẳng, thuộc “đẳng cấp Út Trà Ôn”. Bạch Huệ không chỉ giữ nhịp trường canh để về đúng song lan chánh, mà còn là bậc thầy của việc xử lý nhịp ngay trong lòng bản. Giữ nhịp trong lòng bản cũng là một đặc trưng của dân tài tử bởi nghệ sĩ cải lương chuyên nghiệp khi ca thì thường chỉ giữ nhịp trường canh để về đúng song lan chánh mà thôi. Nhờ cách sắp nhịp đều cho các chữ, giữ đúng câu trong lòng bản, nên khi Bạch Huệ ca, người nghe luôn có cảm giác “yên tâm” không sợ cô rớt nhịp. Có thể nói, trong trường phái tạo được cảm giác “yên tâm” như vậy cho người nghe, Bạch Huệ là một bậc thầy.
Mấy chục năm qua, bản vọng cổ được sử dụng phổ biến nhất là vọng cổ nhịp 32, gồm 6 câu. Thế nhưng, dần dần người ta chỉ sử dụng 4 câu để rút ngắn thời gian của bài vọng cổ. Tuy nhiên, vọng cổ thoát thai từ Dạ cổ hoài lang có đủ loại : nhịp 4, nhịp 8, nhịp 16, nhịp 32, nhịp 64…Và không có nhiều nghệ sĩ cải lương được gọi là chuyên nghiệp, đặc biệt là thế hệ nghệ sĩ trẻ ngày nay, ca được các loại vọng cổ không phải nhịp 32.
Thế nhưng, Bạch Huệ là người “chuyên trị” tất cả thể loại vọng cổ. Phải nói rằng, mỗi loại vọng cổ có cái hay riêng. Chẳng hạn như vọng cổ nhịp 4 mỗi câu rất ngắn, vì thế người nghe không có cảm giác chờ đợi, bởi vì vừa dứt câu này lại tới ngay câu khác. Đó có phải chăng cũng là một cách giúp người nghe giảm cảm giác “bị chán”?
Đối với những bài bản không phải vọng cổ, thì ngoài 20 bài bản tổ còn có vô số bài bản tài tử khác. Gần 3/4 thế kỷ theo nghiệp ca tài tử, Bạch Huệ làm cho nhiều nghệ nhân ca tài tử và ngay cả nghệ sĩ cải lương chuyên nghiệp “kính nể”, vì cô ca sành điệu rất nhiều bài bản. Xin nhắc lại ca sành điệu ở đây tức là Bạch Huệ không chỉ ca đúng nhịp mà còn ca đúng “cái thần” của các bài bản. Điều đáng nói là nghe Bạch Huệ ca bất kỳ bài bản nào, người muốn học ca cảm thấy rất dễ theo dõi nhịp nhàng và có cảm giác dễ làm theo. Có lẽ vì thế mà Bạch Huệ đã là thầy dạy rất thành công của rất nhiều thế hệ học trò trong bộ môn Đờn ca tài tử.
Một điểm nổi bật nữa ở Bạch Huệ, mà chính điểm nổi bật này đã đưa Bạch Huệ lên một đẳng cập khó có người bì kịp. Trong nhiều sự khác biệt giữa cải lương và tài tử, nổi bật nhất đó là cách ca. Nghệ sĩ cải lương thường có cách ca “mướt” hơn dân tài tử, tức là nghệ sĩ cải lương có khuynh hướng ca “uốn éo, bay lượn, điểm tô” giọng ca, còn dân tài tử thì giữ giọng ca theo lối “chân phương” không “hoa lá”.
Cái tính chân phương thuần túy này được thể hiện rất rõ trong cách ca tài tử theo kiểu xưa. Và một trong những cái dễ nhận biết nhất đối với dân tài tử là họ hay ca theo lối “hơ hơ”. Như Danh ca Tám Thưa, Cô Tư Sạng, Cô Năm Cần Thơ, Cô Ba Bến Tre, Chín Hòa, Tư Bé, Năm Phồi…những tay ca tài tử cự phách của miền Nam trước kia. Khi nghe những bậc tiền bối này ca, người nghe sẽ nhận ra ngay đó là ca theo lối tài tử kiểu xưa qua cách họ ca rất chân phương, lối hơ hơ rất đặc trưng của tài tử.
Thế nhưng, theo thời gian, Đờn ca tài tử cũng phải dần thay đổi. Cái lối ca tài tử theo kiểu xưa vì thế cũng dần được các thế hệ sau cách tân. Bạch Huệ gắn bó với Đờn ca tài tử từ những ngày lối ca tài tử theo kiểu xưa còn được yêu mến đến khi nó dần được thay đổi để phù hợp với thời đại. Giọng ca Bạch Huệ là một minh chứng rõ nét nhất cho sự cách tân này. Ta thấy rằng, ca mà chỉ có “chân phương” thì có lẽ hợp với đời xưa hơn, và chọn lọc người nghe hơn, còn nếu như ca mà uốn éo, lạng bẻ quá mức thì cũng làm mất cái thần của tài tử. Bởi vì nên nhớ rằng, ca tài tử rất trọng cái “chân phương”. Chỉ có điều ca tài tử theo lối xưa quá thiên về tính chân phương, còn nhiều nghệ sĩ cải lương, nhất là thế hệ ngày nay, thì lại lạm dụng cái “hoa lá”.
Bạch Huệ đã biết chan hòa đúng mức cái “chân phương” và “hoa lá” trong giọng ca. Và đương nhiên, Bạch Huệ ca “chân phương” nhiều hơn “hoa lá”, nhưng cô đã biết đưa cái “hoa lá” một lượng vừa đủ để cho giọng ca mượt mà hơn, “thời đại” hơn. Tức là, khi nghe Bạch Huệ ca, người nghe cảm nhận được đó là ca theo lối tài tử nhưng vẫn có sự mượt mà vừa phải. Bởi thế mà giọng ca Bạch Huệ giữ được nét chân phương của tài tử xưa nhưng cũng có nét “thời đại”, vì thế mà thu hút được người mộ điệu cả bên tài tử lẫn cải lương.
Nếu Danh ca Minh Chí nổi tiếng là “Vua” ca bài Xàng Xê, thì Bạch Huệ cũng nổi tiếng là người ca tuyệt vời hơi Oán. Hồi đầu những thập niên 1990, khi phong trào Đờn ca tài tử bắt đầu được phục hồi, Bạch Huệ, Công Thành và Tấn Đạt đã tạo ra một “tam tuyệt” trong bài “Bùi Kiệm-Nguyệt Nga” theo điệu Tứ Đại Oán trong đó Bạch Huệ vai Nguyệt Nga, Tấn Đạt vai Bùi Kiệm và Công Thành vai Bùi Ông. Ba người ca bài này theo lối tài tử Nam Bộ một cách xuất thần : Chững chạc trong giọng ca, chuẩn mực trong nhịp nhàng, chuẩn xác trong việc thể hiện cái thần của bài Tứ Đại Oán.
Có một điểm đặc biệt nữa mà không thể nào không nhắc đến khi bàn về tài ca của Bạch Huệ, đó là: Bạch Huệ có thể được xem là người ca hay nhất bài Dạ Cổ Hoài Lang của cụ Cao Văn Lầu. Đây là bài ca ra đời trong bối cảnh nông thôn Nam Bộ, nói lên nỗi lòng của người vợ quê mùa đêm khuya nghe tiếng trống nhớ chồng ngoài biên ải (Dạ cổ hoài lang tức là: Đêm khuya nghe tiếng trống nhớ chồng).
Nếu vọng cổ là bài bản “vua” của cả hai bên tài tử và cải lương, thì Dạ cổ hoài lang là bài bản tổ của bản vọng cổ. Trong bài Dạ cổ hoài lang mang tính chân phương, nhưng cũng có chút hoa lá lãng mạn. Bởi vậy mà ca bài này chân phương quá thì “khô” mà hoa lá quá thì “ướt”. Và giọng ca Bạch Huệ hoàn toàn phù hợp với bài Dạ Cổ Hoài Lang.
Nghe Bạch Huệ ca Dạ cổ hoài lang, người nghe cảm nhận được cái không khí xa xưa, cái u buồn man mác của người vợ nhớ chồng. Nghe Bạch Huệ ca Dạ cổ hoài lang, người nghe cảm nhận được một sự nhớ thương trĩu nặng tâm hồn của người vợ quê nhà mong chồng ngoài vạn lý. Tuy nhiên, giọng ca Bạch Huệ mang đến một cảm giác không quá bi lụy mà có chút gì đó lãng mạn, một niềm hy vọng sum vầy. Đúng như tâm trạng của nhạc sĩ Cao Văn Lầu khi viết bài này vì khi đó ông đang trong cảnh xa vợ và mong chờ đoàn tụ. Đến hiện tại, chưa thấy có người nào ca Dạ cổ hoài lang đạt đến trình độ như Bạch Huệ.
Ngoài việc đóng góp bằng giọng ca, Bạch Huệ mấy chục năm qua còn được biết đến là người góp phần đào tạo nhiều nhân tài cho Đờn ca tài tử và cải lương. Bạch Huệ được mời dạy ca cho các lớp đào tạo nghệ sỹ cải lương chuyên nghiệp ở Trường Sân Khấu Điện Ảnh TP.HCM. Các tỉnh cũng thi nhau mời Bạch Huệ tham gia các lớp đào tạo ca tài tử. Ngoài ra, Bạch Huệ cũng là một “giám khảo thường trực” của các chương trình giao lưu Đờn ca tài tử ở khắp nơi suốt mấy thập niên qua.
Trong xã hội Việt Nam hiện tại, ít người trẻ tuổi yêu thích Đờn ca tài tử, mà một trong những nguyên nhân chính đó là do chưa hiểu được tinh hoa của bộ môn nghệ thuật này. Và như Giáo Sư Trần Văn Khê từng nói rằng : Hãy tìm hiểu đi rồi sẽ thấy thích. Bạch Huệ đóng góp bằng cả cuộc đời cho nghệ thuật Đờn ca tài tử. Những năm tuổi trên 70, Bạch Huệ vẫn rày đây mai đó ca tài tử. Bạch Huệ đóng góp rất lớn cho việc quảng bá tinh hoa của Đờn ca tài tử.
Một điểm đáng quý nữa đó là, các nghệ sĩ cải lương khi nổi tiếng thì kiếm được rất nhiều tiền, chứ còn bên tài tử thì ngược lại. Dù là không kiếm được nhiều tiền, nhưng Bạch Huệ vẫn theo đuổi cái nghiệp Đờn ca tài tử suốt 70 năm với bao nỗi thăng trầm, để khi tuổi vượt hàng “thất thập cổ lai hy”, dù đi ca suốt, nhưng vẫn sống trong cảnh khổ nghèo. Tấm lòng yêu nghề này của Bạch Huệ thật đáng trân trọng.
Năm 2007, Bạch Huệ được nhà nước Việt Nam phong tặng danh hiệu “Nghệ nhân dân gian”. Ngày 12/10/2013, Bạch Huệ đã về với tổ nghiệp. Sự ra đi của cô có thể được xem là sự ra đi của “Cây đại thụ cuối cùng” của làng Đờn ca tài tử Nam Bộ. Gần 3/4 thế kỷ góp phần bảo tồn và phát triển Đờn ca tài tử, với tài năng đó và với đẳng cấp đó, Bạch Huệ xứng đáng được xem là “Đệ nhất nữ danh ca tài tử Nam Bộ”.
Nguồn: www.rfi.fr