Bích Sơn - Trần Bích Sơn (1939-20..)
Nghệ sĩ Bích Sơn tên thật là Trần Bích Sơn, còn có tên riêng Vĩnh San hay Dung, sanh năm 1939 tại Hà Nội.
Cuối năm 1952, nữ nghệ sĩ Bích Thuận đi hát trong Nam đã đem theo hai cháu gái là Bích Sơn và Bích Thủy. Lúc đó Bích Sơn còn là cô gái thơ ngây tóc xõa bờ vai.
Vào đến Hòn Ngọc Viễn Ðông, Bích Sơn được gửi gắm vào trường Saint Marie Tân Ðịnh. Sau ba năm học trường đạo, nhờ sẵn có khiếu về tân nhạc, Bích Sơn được nữ nghệ sĩ Bích Thuận tập ca hát.
Năm 1955, Bích Sơn gia nhập ban Xuân Thu của nhạc sĩ Lê Thương, và cuối năm này, nữ nghệ sĩ Bích Thuận thành lập đoàn Bích Thuận, thì Bích Sơn về hát cho gánh nhà, và đây là bước đầu dọ dẫm, nàng chỉ đóng vai nàng tiên nữ phụ Thùy Vân.
Trong thời gian này cô bé Bích Sơn chỉ được chú ý qua giọng ngâm thơ trong trẻo và cốt cách kiều mị còn bị che phủ trong dáng điệu e dè. Lúc bấy giờ thi sĩ Kiên Giang là soạn giả, cũng đồng thời là ký giả kịch trường. Kiên Giang về cộng tác đoàn Bích Thuận, chàng ta đã mê mệt nàng Bích Sơn.
Năm 1957 khán giả bắt đầu chú ý Bích Sơn qua hình ảnh công chúa Phù Tang trong vở Khi Hoa Anh Ðào Nở của Hà Triều Hoa Phượng trên sân khấu Thúy Nga.
Ðầu năm 1958, Bích Sơn được giới thiệu với ban giám đốc để thành lập kịch đoàn Bích Sơn-Ngọc An. Trên sân khấu Bích Sơn được khán giả Ðà Lạt tưởng thưởng qua vai sơn nữ Phà Ca trong vở “Bao Giờ Mùa Sim Chín” (người vợ không bao giờ cưới) của Kiên Giang-Phúc Quyên.
Cũng năm này Bích Sơn được đại nhạc hội Giao Duyên giới thiệu lần đầu bài thơ “Hoa Trắng Thôi Cái Trên Áo Tím” qua giọng ngâm u buồn như tiếng chuông giáo đường. Bích Sơn đã thu hút được nghệ cảm của sức học sinh trí thức. Trên sân khấu Thủ Ðô, cũng như dưới ánh đèn của các dạ hội qua các tỉnh miền Trung, Bích Sơn đã gieo sâu vào tâm khảm thính giả dư âm của một nghệ cảm thâm trầm.
Lúc đoàn diễn tại Cần Thơ, cũng là lúc Kiên Giang viết vở tuồng Ngưu Lang Chức Nữ, cho Bích Sơn thay thế cô Bích Thuận đóng vai nàng tiên xuống trần tắm suối bỏ quên cặp cánh không về Bồng Lai tiên cảnh được, rồi ở lại lấy chồng luôn. Qua vai nầy Bích Sơn đã bước một bước tiến dài từ vai phụ đến vai chánh.
Trở về Sàigòn, thi sĩ Kiên Giang viết bài đăng trên tờ Tiếng
Chuông kịch trường, hết lời ca tụng nàng Bích Sơn. Thấy Bích Sơn duyên dáng, thanh tao đẹp như tiên… thật, thi sĩ Kiên Giang bèn tự viết báo ca tụng nàng là “kiều nữ.” Hình ảnh kiều nữ đã hiện lên hầu hết ý thơ của Kiên Giang, và đã trở nên một giai thoại trong làng sân khấu.
Trên giai phẩm giải Thanh Tâm 1960, Kiên Giang đã đưa Bích Sơn lên tuyệt đỉnh trong cuộc đời làm nghệ thuật. Xin trích vài đoạn như sau:
“…Năm 1959, khán giả thủ đô được dịp thưởng thức tài nghệ Bích Sơn qua vai Phương Thành trong soạn phẩm cổ tích ‘Áo Cưới Trước Cổng Chùa.’ Nghệ thuật diễn xuất của Bích Sơn được khơi dậy đến cao độ từ vai trò ấy.
“Tài nghệ được kết tạo qua nhiều sân khấu để rồi nở chín trên sân khấu Thanh Minh, Bích Sơn nghiễm nhiên trở thành một nữ diễn viên gần như một kịch sĩ gần đủ hai yếu tố cần thiết: diễn và ca ngâm.
“Với suối tóc dài cốt cách cân đối, gương mặt sáng, đôi mắt mơ huyền, giọng ngâm thơ thánh thót đi sâu vào tâm cảm người nghe, Bích Sơn có đủ điều kiều mang mỹ danh kiều nữ. Nhất là với chiếc áo cài hoa trắng và suối tóc huyền, Bích Sơn được xem là kiều nữ áo tím trên sân khấu cũng như ngoài đời.
“Với phong thái của một kiều nữ, Bích Sơn đủ điều kiện đóng các vai chánh trong loại tuồng đường rừng, hương xa cũng như xã hội. Ðặc biệt trong loại tuồng hương xa (Nhật) Bích Sơn thể hiện trung thực nhứt hình ảnh cô gái Phù Tang, Bích Sơn càng trở nên huyền ảo, trong các vai sơn nữ.
“Người ta có thể nhận thấy Bích Sơn yếu kém về phương diện ca vọng cổ, nhược điểm ấy có thể được đền bù khỏa lấp chăng?
“Bích Sơn là người sinh ở đất Bắc, tất nhiên giọng nói cũng ảnh hưởng ở âm điệu của thổ ngữ miền Bắc. Như thế, Bích Sơn làm sao ca vọng cổ bằng Út Bạch Lan, Thanh Nga, Thanh Hương… Nhưng với quyết tâm học nói giọng Nam, rèn luyện kỹ thuật ca vọng cổ, Bích Sơn đã tiến bộ đến cao độ trên phương diện ca. Trong vở “Bếp Lửa Chiều Ly Biệt” của Yến Lang và “Bốn Cánh Hoa Ðào” của Lê Khanh, Bích Sơn vẫn được báo chí và khán giả khích lệ và khen ngợi ở kỹ thuật ca vọng cổ. Như thế nhược điểm ấy có thể được đền bù bằng giọng ngâm thơ, khả năng ca nhạc mới, và nghệ thuật diễn xuất sống động và trung thực.
“Bích Sơn là một nữ nghệ sĩ Bắc duy nhứt sống gần gũi và tha thiết với các sân khấu ca kịch miền Nam. Trước kia sự dung hợp nghệ sĩ Bắc Nam trên một sân khấu là cả việc khó khăn. Lần đầu tiên Bích Sơn vào sân khấu Thúy Nga với tất cả sự ngỡ ngàng mặc dù chủ nhân, soạn giả và nghệ sĩ miền Nam mở rộng cửa để sẵn đón. Dần dần Bích Sơn từ bóng tối hậu trường xuất hiện giữa tiền trường, tiếp nhận được sự tán thưởng của khán giả miền Nam, ở Lục Tỉnh ở miền Ðông, tự nhiên mặc cảm ấy tiêu tan, Bích Sơn càng bước sâu vào sân khấu miền Nam càng tìm thấy hơi ấm và không khí kịch nghệ để trở thành đứa con ruột của sân khấu ca kịch miền Nam. Bích Sơn là gạch nối liền giữa nghệ sĩ Bắc Nam.
“Bích Sơn hãy cảm tạ nghệ thuật, trước khi nhận lãnh ‘huy chương vàng 60’ của giải Thanh Tâm…”
Như vậy, mỹ danh “kiều nữ” của Bích Sơn là do Kiên Giang đặt trong bài báo ấy, Bích Sơn được mang luôn mỹ danh ầy cho đến ngày nay..
Kiều nữ Bích Sơn lập gia đình với một quân nhân, là sĩ quan ngành Quân cụ. Thời ấy những người rõ biết sự thể đã nói rằng, nếu như kiều nữ chưa có chồng, chắc là còn cả “lố” bài thơ ca tụng người đẹp.
Là cô đào được kể là đẹp với mái tóc dài tới nhượng chân. Sau 1975, chồng của Bích Sơn đi học tập cải tạo và Bích Sơn thì đi Pháp. Về sau họ đoàn tụ với nhau và sang định cư Hoa Kỳ.
Năm 2001, Hội Cổ Nhạc Miền Nam Việt Nam Hải Ngoại, tổ chức giải Phụng Hoàng, có mời Bích Sơn tham gia ban giám khảo, nhưng kiều nữ từ chối. Lúc ấy nhạc sĩ Nguyễn Hiền, cố vấn của hội nói rằng: Giờ đây Bích Sơn đã ngoài 60 rồi, không còn là kiều nữ nữa mà đã là “già nữ” nên cô không muốn xuất hiện chăng? Cũng có thể lắm, kiều nữ muốn giữ hình ảnh đẹp của mình trong lòng khán giả mộ. điệu nghệ sĩ Cải lương.
Nguồn trích dẫn: Tác giả Huỳnh Ái Tông