Điêu Huyền - Phạm Văn Điều (1915-1983)
Soạn giả Điêu Huyền tên thật là Phạm Văn Điều sinh năm 1915, tại xã Nhơn Nghĩa, huyện Phong Điền, tỉnh Cần Thơ, nay là Thành phố Cần Thơ. Ông, là người con thứ chín trong một gia đình 11 anh em, thường được gọi thân mật là Chín Điều.
Lúc học Collège de Cantho, sau cải danh là Trung học Phan Thanh Giản Cần Thơ, Điêu Huyền là 1 trong số 3 người được cấp học bổng. Ngoài ra, Điêu Huyền còn giỏi ở nhiều lĩnh vực khác. Ông có “hoa tay”, viết chữ rất đẹp, kể cả viết chữ Hán. Với tài hoa đó, ông tự tay thiết kế cảnh trí, phông màn cho vở cải lương Mười năm gian khổ do Đoàn cải lương Lam Sơn biểu diễn. Tài hoa này thể hiện ở chỗ ông còn là soạn giả vở diễn vừa nêu. Cái máu đờn ca tài tử có trong ông ngay từ khi còn nhỏ. Trước năm 1930, ở Nhơn Nghĩa có nhóm đờn ca tài tử Ái Nghĩa, tên cũ của Nhơn Nghĩa với 12 anh em tham gia, là một trong vài ban đờn ca tài tử sớm nhất ở Cần Thơ. Trong ban đờn ca tài tử Ái Nghĩa có ông anh thứ năm của Điêu Huyền là Phạm Văn Cận đờn cò rất giỏi. Nhờ đó, Điêu Huyền theo nhóm, mon men viết tuồng. Khi theo học Collège de Cantho, ông gặp nhạc sĩ Lưu Hữu Phước. Lưu Hữu Phước chơi mandolin, Điêu Huyền chơi đờn tranh. Họ thành bạn thân từ đó.
Khoảng năm 1952-1954, Điêu Huyền làm ở Ty Thông tin Cần Thơ. Đây là giai đoạn ông viết nhiều vở cải lương. Địa chí Cần Thơ trang 565 viết: “Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, Đoàn tuyên truyền lưu động tỉnh được thành lập, vừa tuyên truyền, vừa diễn kịch Thiếu nhi thời loạn của soạn giả Điêu Huyền, tiêu biểu cho giai đoạn này .... Cũng vào khoảng giữa năm 1952, Đoàn cải lương Lam Sơn thuộc Ty Thông tin tỉnh Cần Thơ ra đời, do soạn giả Điêu Huyền làm trưởng đoàn, vở cải lương Mười năm gian khổ do ông soạn đã trở thành vở diễn chính của đoàn”.
Cũng nổi tiếng là vở Chim Việt cành Nam, nhưng Mười năm gian khổ còn có tên Chén cháo Chí Linh là vở cải lương nổi tiếng nhất của ông trong giai đoạn này, diễn rộng rãi ở miền Tây Nam bộ. Đáng chú ý là vở Nợ máu trả bằng máu khi diễn sơ khảo rất được nhân dân yêu thích, nhưng không được công diễn vì Tỉnh ủy phê là “tả khuynh”...
Sau năm 1945, Điêu Huyền lập đoàn văn nghệ tại ấp nhà, diễn viên chủ yếu là con cháu và người trong dòng họ. Vở tuồng nổi tiếng nhất là Thiếu sinh thời loạn, phản ánh tình yêu nước của lớp trẻ.
Năm 1954, ông lên Sài Gòn tìm kế sinh nhai với việc sáng tác tuồng cải lương. Những tác phẩm trong thời kỳ này của ông phần lớn thuộc loại dã sử, nói về người Việt cùng đồng bào dân tộc ít người đâu lưng chung cật chống xâm lăng. Đáng chú ý là vở Ánh lửa rừng khuya, sáng tác khoảng năm 1980-1981, với bối cảnh là cuộc chiến biên giới Tây Nam đánh quân Polpot. Tác phẩm cuối cùng của Điêu Huyền là vở Gió bụi biên thùy khoảng năm 1982-1983. Khi đoàn cải lương diễn vở này ngoài Bắc trở về, đưa số tiền nhuận bút, Điêu Huyền nói cả đời ông không bao giờ mơ thấy được.
Năm 1983. Một bữa ăn cơm xong, đi rửa chén, Điêu Huyền kêu nhức đầu, triệu chứng cao huyết áp, ngã ngang, đụng đầu vào lavabo, qua đời ở nhà riêng tại Tp. HCM. Thọ 68 tuổi.
Soạn giả Điêu Huyền qua đời đã lâu nhưng người hâm mộ cải lương vẫn luôn nhớ đến các vở Khách sạn Hào Hoa, Tìm lại cuộc đời, Cây sầu riêng trổ bông, Kiếp chồng chung... nhưng “đình đám” nhất vẫn là vở Tiếng hò sông Hậu. Xem vở này, ai cũng ghét thậm tệ nhân vật Hội đồng Dư. Tiếng hò sông Hậu thành công vì gây dựng được niềm tin trong lòng khán giả về luật nhân quả nhãn tiền: kẻ xấu, kẻ ác bị trừng phạt hoặc họ sẽ hồi tâm quay về nẻo chính.
Ngoài tài nghề sáng tác, soạn giả Điêu Thuyền còn là giám đốc kỹ thuật cho nhiều đại ban Cải lương trước 1975, riêng trong đó có gánh Cải lương Kiên Giang mà NSND Bạch Tuyết không thể nào quên. Đó là gánh Cải lương đầu tiên chị Bạch Tuyết khởi nghiệp và được soạn giả Điêu Thuyền giới thiệu và nhận chị làm con nuôi từ đó.
Có thể nói, soạn giả Điêu Huyền là một trong những nhân cách nghệ thuật lớn đầy tài hoa bên cạnh các ngòn bút cả đời theo nghiệp Tổ như: Hà Triều - Hoa Phượng, Thu An, Hoàng Khâm, Nhị Kiều, Quy Sắc… ông là cung đàn trỗi lên những nốt nhạc mùa xuân vĩnh cửu trong lòng yêu mến của biết bao thế hệ nghệ sĩ, khán giả yêu sân khấu kịch hát dân tộc.
Nguồn trích dẫn: Tác giả Huỳnh Ái Tông