Nghệ danh: Tám Danh
Tên khai sinh:  Nguyễn Phương Danh
Giới tính: Nam
Ngày sinh: 30 tháng 6, 1901
Nơi sinh: Phong Điền, Cần Thơ

Ngày mất: 9 tháng 3, 1976 (74 tuổi)
Tiểu sử: Thành phố Hồ Chí Minh

Tiểu sử:Đạo diễn sân khấu, Diễn viên sân khấu
Danh hiệu: Nghệ sĩ nhân dân (1984)

Tiểu sử:

Nguyễn Phương Danh (1901–1976), thường được biết đến với nghệ danh Tám Danh, là một trong những nghệ sĩ tiên phong và tài hoa của sân khấu cải lương Việt Nam. Ông sinh ra tại làng Nhơn Nghĩa, Cần Thơ, trong một gia đình đông anh chị em. Từ nhỏ, ông đã sớm bộc lộ tài năng nghệ thuật khi tham gia ban nhạc lễ của xã. Sau này, Tám Danh được đào tạo về võ nghệ, nhạc cụ và kỹ năng diễn xuất khi tham gia nhiều gánh hát nổi tiếng khắp Nam kỳ. Năm 17 tuổi, ông bắt đầu sự nghiệp diễn xuất và nhanh chóng được biết đến với khả năng xuất chúng khi làm kép chính của gánh hát Đồng Bào Nam.

Với tài năng đa dạng trong ca diễn và chơi đàn kìm điêu luyện, ông thu hút sự chú ý của các gánh hát nổi tiếng. Ông gia nhập gánh Phước Cương, nơi đã góp phần nâng cao vị thế của mình với các vai diễn kinh điển như Vương Tư Đồ trong Phụng Nghi Đình và Tề Thiên Đại Thánh trong Mẫu Đơn Tiên. Đến năm 1931, ông cùng gánh Phước Cương lưu diễn tại hội chợ Paris, gây ấn tượng mạnh mẽ với khán giả quốc tế, đặc biệt là Hoàng hậu Hà Lan, và ghi dấu sự nổi tiếng của cải lương Việt Nam trên sân khấu thế giới.

Sau khi trở về Việt Nam, ông và các đồng nghiệp sáng lập gánh Tiếng Chung và tiếp tục hành trình xây dựng nghệ thuật cải lương. Tuy nhiên, khó khăn tài chính khiến ông chuyển sang hợp tác với hãng đĩa Asia và thử sức trong lĩnh vực điện ảnh với vai trò đạo diễn cho phim Trọn với tình, bộ phim tiếng Việt đầu tiên. Dù chưa đạt được thành công như mong đợi, đây là dấu mốc cho thấy tinh thần tiên phong của Tám Danh trong nghệ thuật.

Khi Thế chiến II bùng nổ, Tám Danh bắt đầu tham gia cách mạng, dàn dựng nhiều vở diễn yêu nước. Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, ông tham gia kháng chiến với vai trò Chủ tịch Ủy ban kháng chiến hành chính xã Mỹ Khánh, và sau này là cán bộ văn nghệ của Đoàn Văn nghệ Cửu Long. Ông trở thành đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam và đóng góp to lớn vào công tác văn nghệ cách mạng ở miền Nam, rồi tập kết ra Bắc sau Hiệp định Geneva.

Khi làm việc ở miền Bắc, Tám Danh tham gia giảng dạy và lãnh đạo Đoàn cải lương Nam Bộ, đóng góp nhiều thể nghiệm nghệ thuật kết hợp giữa vũ đạo và võ thuật, nhằm làm phong phú ngôn ngữ sân khấu cải lương. Ông cũng tích cực trong công tác giảng dạy tại Trường Nghệ thuật Ca Kịch Dân tộc, đào tạo thế hệ diễn viên mới. Nhiều học trò của ông như Ca Lê Hồng và Lê Thiện sau này cũng đã nổi danh.

Tám Danh ra đi vào năm 1976, nhưng di sản nghệ thuật và lòng nhiệt thành của ông vẫn sống mãi. Ông được Nhà nước Việt Nam truy tặng danh hiệu Nghệ sĩ Nhân dân đợt đầu tiên, và tên tuổi ông còn được vinh danh qua các chương trình tưởng niệm.