Tư Trang - Trần Hữu Trang (1906-1966)
Soạn giả Trần Hữu Trang SN 1906 tại xã Phú Kiết, huyện Chợ Gạo, tỉnh Mỹ Tho, nay thuộc tỉnh Tiền Giang. Sinh trong một gia đình nông dân. Đây cũng là quê hương của bao nghệ sĩ cải lương có tên tuổi như Hai Giỏi, Năm Châu, Bảy Nhiêu, Phùng Há, Năm Phỉ, Tư Chơi, Tư Anh, Hai Thông…Ông sinh ra và lớn lên trong một gia đình trung nông sa sút. Đời ông nội còn có căn nhà vào loại khá. Đến đời cha đã phải đi làm thuê. Bản thân ông đã phải làm thợ hớt tóc.
Sống ở Mỹ Tho, chiếc nôi của hoạt động văn hóa, nghệ thuật lúc bấy giờ, ông đã sớm bộc lộ một tinh thần yêu nước. Trong giai đoạn 1926-1928, ông “tham gia phong trào đấu tranh đòi thả Phan Bội Châu, dự các buổi diễn thuyết của Phan Châu Trinh” [5; tr.1788]. “Ông đã liên hệ với phong trào cộng sản ngay từ hồi 1930 – 1931” [3; tr.460]. Có lần, một chiến sĩ cách mạng bị mật thám bám riết, phải chạy vào hiệu hớt tóc của Trần Hữu Trang. Ông đã che giấu và còn tặng 20 đồng làm lộ phí [Theo 4; tr. 15]. Trong thời gian Trần Hữu Trang gắn bó với gánh hát Phụng Hảo của nghệ sĩ Phùng Há, chiến sĩ cộng sản Nguyễn Chí Diểu đã từng đến gặp ông để trao đổi về khuynh hướng sáng tác “tả thực xã hội” [Theo 4; tr. 22]. Một khuynh hướng sáng tác mà thời bấy giờ viết bất cứ vở cải lương ông đều tuân theo.
Ngay từ nhỏ ông đã say mê đàn hát. Lúc đầu ông đi theo các gánh hát làm thư kí chép vở, sau đó được Mười Giảng (tức Đặng Công Danh) hướng dẫn dạy dỗ.
Kịch bản đầu tay Lửa đỏ lòng son của ông sáng tác vào năm 1928, tiếp theo đó là vở Tâm hồn nghệ sĩ. Những sáng tác này tuy còn nhiều hạn chế nhưng đã có sự mới mẻ về hình thức lẫn nội dung, đặc biệt đã đưa cuộc sống đương thời vào trong sân khấu cải lương, làm cho sân khấu cải lương đậm chất tả thực xã hội. Những năm 1930, ông cho ra đời hàng loạt sáng tác: Tô Ánh Nguyệt năm 1934, Lan và Điệp năm 1936, Đời cô Lựu năm 1937. Ông cộng tác với các gánh hát Trần Đắc, Năm Phỉ, Phụng Hảo, Năm Châu.
Thời kỳ thập niên 1930, tài năng nghệ thuật của ông đã đạt được nhiều thành tựu, đã làm cho tên tuổi của ông trở nên nổi tiếng. Những năm sau ông cộng tác với các gánh hát Trần Đắc, Năm Phỉ, Phụng Hảo, Năm Châu. Những sáng tác sau đó gây tiếng vang như Tìm hạnh phúc, Mộng hoa vương, Chị chồng tôi, Tình lụy, Khi người điên biết yêu viết chung với Năm Châu, Lê Hoài Nở, đã tạo nhiều dấu ấn.
Những sáng tác của ông không chỉ thành công ăn khách mà còn là những sáng tác xuất sắc của sân khấu cải lương trước Cách mạng. Những sáng tác ấy xoáy sâu vào hiện thực xã hội, đã phơi bày số phận những người dân bất hạnh hay đề cập đến những bi kịch của tình yêu và hôn nhân trong hoàn cảnh xã hội đương thời. Các vở diễn của Trần Hữu Trang gợi lên giá trị tố cáo, vạch trần những tệ nạn và sự thối nát của xã hội, là khát vọng giải phóng con người thoát khỏi mọi dây trói của lễ giáo, hủ tục. Với gần 30 kịch bản mang nội dung tư tưởng tiến bộ và giá trị nhân văn sâu sắc, Trần Hữu Trang là một trong những soạn giả lớn của nghệ thuật cải lương Nam Bộ.
Ở Trần Hữu Trang ngoài tình yêu dành cho nghệ thuật truyền thống của dân tộc, ông còn là một cán bộ tham gia kháng chiến chống Pháp từ những ngày đầu khởi nghĩa. Ông đã có lúc tạm rời sân khấu để trực tiếp tham gia kháng chiến cứu nước trong cương vị Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến xã Phú Kiết quê hương. Năm 1947, ông vào Sài Gòn làm công tác vận động văn nghệ sĩ, trí thức trong vỏ bọc của một nghệ sĩ Đoàn cải lương “Con tằm”.
Phục vụ sân khấu cải lương, Tư Trang là một trong những người sáng lập Hội Nghệ sĩ Ái hữu và hoạt động trong Ban chấp hành. Sau Cách mạng tháng 8, do hoàn cảnh công việc nên ông không sáng tác nhiều. Năm 1946, ông cho ra vở Hậu chiến trường. Ðến 1960, phong trào Ðồng khởi nổi lên, ông vào khu và giữ chức chủ tịch Hội Văn nghệ Giải phóng. Hai mươi năm sau năm 1966, ông mới bắt tay viết kịch bản mới về người chiến sĩ cách mạng Nguyễn Văn Trỗi. Thế nhưng kịch bản đã không thể hoàn thành được. Năm 1966, lần đầu tiên máy bay B52 oanh kích vào Trung ương Cục miền Nam ở biên giới Việt Miên, Trần Hữu Trang thiệt mạng trong trận bom này, ông lìa đời vào ngày 20-11-1966, thọ 60 tuổi.
Trần Hữu Trang đã được Nhà nước truy tặng Huân chương Thành đồng. Trong đợt 1 (1996) ông được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật. Tên ông còn được đặt tên cho một con đường, một ngôi trường ở Thành phố Hồ Chí Minh. Ông còn được đặt cho tên Nhà hát Cải lương Trần Hữu Trang và giải thưởng Trần Hữu Trang, một giải thưởng lớn mà nhiều nghệ sĩ ước ao.
Những tác phẩm tiêu biểu của ông:
- Tô Ánh Nguyệt (1934)
- Lan và Điệp (1936)
- Đời cô Lựu (1937)
- Tìm hạnh phúc
- Mộng hoa vương
- Chị chồng tôi
- Tình lụy
- Khi người điên biết yêu (cùng với Năm Châu, Lê Hoài Nở)
- Hậu chiến trường (1946)
Với gần 30 vở cải lương Trần Hữu Trang đã miêu tả cái hiện thực xã hội mà ông sống cùng thời. Ông xoáy sâu trực diện vào hiện thực xã hội đó. Những sáng tác này đã phơi bày số phận những người dân bất hạnh hay đề cập đến những bi kịch của tình yêu và hôn nhân trong hoàn cảnh xã hội đương thời. Các vở diễn của ông có giá trị tố cáo, vạch trần những tệ nạn và sự thối nát của xã hội. Và các vở cải lương đó cũng là tiếng nói của khát vọng giải phóng con người. Chúng ta hiểu vì sao mà những vở diễn của ông, lại được đón nhận nồng nhiệt lúc đương thời và lưu lại cho đến ngày nay.
Nguồn trích dẫn: Tác giả Huỳnh Ái Tông